Bấy giờ có một người
đến thưa Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng
sự sống đời đời? " Đức Giê-su đáp: "Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ
có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều
răn." Người ấy hỏi: "Điều răn nào? " Đức Giê-su đáp: "Ngươi
không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng gian. Ngươi phải thờ cha kính mẹ", và
"Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình." Người thanh niên ấy
nói: "Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa
không? " Đức Giê-su đáp: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán
tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi
hãy đến theo tôi." Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta
có nhiều của cải. (Mt 19,16-22)
Thánh Bernađô, Tiến Sĩ Hội Thánh
Bernađô sinh năm 1090, tại lâu đài Phontaine gần
Dijon. Cha Ngài là hiệp sĩ Tescelin khôn ngoan và đạo đức. Mẹ Ngài là bà Aleth
Thánh thiện. Năm 22 tuổi, cả một tương lai sáng mở ra rước mắt, nhưng một đêm
Giáng sinh, Ngài được thị kiến thấy Chúa Giêsu âu yếm ẵm lấy Ngài. Một ngày
khác vào thánh đường, Ngài tha thiết cầu xin Chúa cho Ngài biết thánh ý Chúa,
cũng như xin Chúa ban ơn can đảm thi hành thánh ý ấy. Chỗi dậy, Ngài quyết định
gia nhập dòng Citeax, một dòng tu nổi tiếng khắc khổ. Điều đặc biệt là Ngài đã
chọn một tu viện xa nhà và nghèo khổ thay vì những tu viện Bênêdictô mà tặng
vật và ảnh hưởng của gia đình có thể bảo đảm cho Ngài những chức vụ sáng giá.
Bernađô trình bày ý định với cha, Ngài đã bị phản
đối, anh em trong gia đình cũng không chấp nhận được ý kiến này. Ngài nói: Xin
hãy tin con, cuộc chinh phục linh hồn không được đáng giá sao ?
Cương quyết và nhiệt tình, Bernađô không những đã
làm cho cha mẹ và anh em nhượng bộ, lại còn lôi cuốn họ vào dòng theo chân mình
nữa. Lần kia em út Nivard đang ngồi chơi, Guy-người anh cả nói: Giã từ em nhé.
Tất cả sản nghiệp thuộc về em, bằng lòng chứ ?
Người em út nói lớn: Sao ? Trời cho các anh, còn
đất cho em, phân chia chẳng đồng đều tý nào.
Rồi người em út cũng theo cha và các anh vào
dòng. Ngoài ra ông cậu và các bạn của Bernađô, tất cả trên 30 người đã theo chân
Ngài vào dòng.
Sự gia nhập đông đảo này đã tiêm một nhiệt huyết
mới vào dòng Citeaux. Thái độ của Bernađô và của các bạn còn được một số đông
các bạn trẻ noi theo. Đức viện phụ của dòng lúc ấy là thánh Stêphanô Harding,
một người gốc Anh, thánh thiện, khôn ngoan và uyên bác. Ngài sai từng nhóm nhỏ
đi lập các tu viện mới rập theo khuôn mẫu của nhà mẹ. Ba năm sau, tới phiên
Bernađô, Ngài dẫn đầu một nhóm tu sĩ 12 người đến một thung lũng gần Langres.
Họ dựng chòi một nhà nguyện, nhà ăn, làm những cái hòm giống như quan tài để
ngủ. Sự thánh thiện của các tu sĩ cũng như vùng thung lũng trở thành thung lũng
ánh sáng hay là Claivaux.
Thánh Bernađô là đan viện phụ của tu viện này cho
đến hết đời. Danh tiếng Ngài lan rộng. Nhiều người từ xa đến xin Ngài giúp đỡ hay
xin Ngài phân xử cho những vụ tranh chấp. Việc này không được mọi người bằng
lòng, vì Ngài không biết sợ ai cả. Ngày kia người nhận được một lá thư ngắn
ngủi từ Roma yêu cầu Ngài đừng xen mình vào chuyện đời. Không gì làm Ngài vui
mừng bằng được ở yên trong tu viện. Nhưng vì cảm thấy mình có liên hệ tới lợi
ích của Giáo hội nên đã không ngại viết một lá thư hồi âm.
Ngài là người ủng hộ nhiệt liệt cho những cải
cách Hildebrand, nhưng Ngài nghĩ rằng: sự tập quyền trong Giáo hội đã đi quá
xa. Khi nâng đỡ cho những đòi hỏi của toà thánh, Ngài không tin là phải phỉnh
nịnh Đức Giáo hoàng. Nhưng khi sự phân rẽ đe dọa làm rạn nứt Giáo hội, Ngài
được triệu vời đến. Một cách rạng rỡ, Ngài đã đánh bại vị phản Giáo hoàng. Lúc
này danh tiếng Ngài lan rộng khắp Châu Âu. Rất nhiều người muốn tìm đến với
Ngài để tìm ý kiến giúp đỡ. Không đến với Ngài được, người ta viết thư và Ngài
đã quyết hồi âm cho tất cả mọi người. Một phần nhỏ trong số thư tín khổng lồ
này còn sót lại, đó cũng là một trong những nguồn tài liệu lịch sử chính yếu về
thời đó.
Đối với Đức Maria, thánh Bernađô có một lòng sùng
kính đặc biệt. Một ngày kia tại nhà thờ chính tòa Sprine, khi nghe hát Kinh Lạy
Vữ Vương, Ngài đã nhiệt tình thêm vào: Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay,
Thánh Maria trọn đời đồng trinh.
Chính Ngài cũng Ngài viết thánh thư cảm động: Ave
Maria Stella.
Những năm cuối cùng đời Ngài bị phủ mờ vì sự thất
bại của đạo binh thánh giá thứ nhì. Đức Giáo hoàng cậy Ngài cổ động cho đạo
binh này. Nghe lời Ngài toàn Âu Châu cầm khí giới lên đường. Nhưng khi xa khỏi
ảnh hưởng của Ngài, các nghĩa binh thánh giá đã quên hẳn lý tưởng cao cả của
mình mà làm vỡ cuộc viễn chinh vì đánh phạt nhau và vì các việc làm bất xứng
với danh hiệu Kitô hữu. Dầu không thể quy trách được cho thánh Bernađô, nhưng
như các thánh nhân khác và như chính Chúa Kitô, Ngài đã qua đời năm 1153, dưới
bóng mây mù vì thất bại đã quá rõ ràng. Ngài nói với con cái Ngài: Cha không
biết phải giải quyết thế nào. Tình thương yêu con cái đòi cha ở lại nhưng tình
yêu Thiên Chúa kéo cha lên cao.
Cả Âu Châu thương tiếc Ngài. 21 năm sau, Đức
Alexandro III phong Ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1830, Ngài được đặt làm tiến
sĩ Hội Thánh. Ngài đã sống trước khi hình thành thuyết kinh viện và bởi vì giáo
huấn của Ngài còn nằm trong truyền thống các giáo phụ, người ta thường coi Ngài
là thánh giáo phụ cuối cùng.
Thánh Benardo đã xây dựng cho mình một lối sống
hy sinh, từ bỏ lối sống xa hoa trần thế để chọn Chúa là gia nghiệp. Xin cho mỗi
chúng ta cũng biết noi gương thánh nhân, sống hiến thân vì tình yêu Đức Kitô
thúc bách. Để Danh Thánh Ngài ngày càng được nhiều người biết đến trên thế giới
hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét