"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại
và hãy ghét kẻ thù.44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu
nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.45 Như vậy, anh em mới được trở
nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người
mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công
chính cũng như kẻ bất chính.46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu
thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng
làm như thế sao?47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh
em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?48
Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện. (Mt 5,44-48)
I.
GIỚI LUẬT YÊU
THƯƠNG
1- Luật yêu thương trong Kitô giáo
a- Trong Cựu ước :
Luật cũ Lêvi 19,18 dạy yêu tha nhân. Theo quan niệm
của người Do thái, tha nhân là những người đồng chủng, nghĩa là chỉ người Do
thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà
cũng không được giúp.
Trong luật không dùng tới chữ “ghét” (ghét thù
địch) song dễ hiểu như vậy. Việc ghét thù địch này suy diễn ra tữ những bản văn
khuyên xa tránh dân ngoại (Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Người Do thái từ
chối mọi liên đới với người không cắt bì, vì cho rằng họ không có bổn phận gì
về công bằng với người ngoại. Có thể đánh lừa, ăn trộm, mà không phải áy náy gì
hết.
b- Trong Tân ước :
Đức Giêsu đã tuyên bố Ngài đến không phải để phá bỏ
luật cũ nhưng đến để kiện toàn nó, làm cho nó nên hoàn hảo hơn. Vì thế, theo
giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng
còn phải đi tới chỗ yêu thương thù địch nữa.
Luân lý của người Do thái xưa chỉ buộc yêu thương
những người gần gũi, nghĩa là những người đồng chủng, đồng bào, đồng tín ngưỡng
với mình. Nhưng nay Đức Giêsu dạy phải yêu thương hết mọi người, vì
mọi người là anh em với nhau như người ta thường nói :”Tứ hải giai huynh đệ” :
bốn bể anh em một nhà.
2-
Luật Talion (luật báo thù)
Ngày xưa dân Do thái cũng như dân ngoại đối xử với
nhau quá mức trong việc trả thù. Ví dụ : Cain báo thủ 7 lần, Lamek báo thù 70
lần 7 (St 4,15; 4,17-24) : vì bị thương, ta giết một người; ta trầy da, một nam
nhi toi mạng (Kn 4,23-24).
Nhưng khi luật Talion ra đời, luật này qui định một
hình phạt tương đối với thiệt hại đã gây ra.
Đức Giêsu khởi sự bằng cách trích dẫn luật cổ nhất thế
gian : mắt đền mắt, răng đền răng, luật ấy gọi là Lex talionis (luật
báo thù). Nó xuất hiện trong bộ luật cổ nhất gọi là luật của
Hammurabi, vị hoàng đế trị vì Babylon từ năm 2285-2242 TC.
Luật Hammurabi phân biệt cách đối xử kỳ lạ giữa người
quí phái và công nhân : nếu một người gây cho người quí phái mất con
mắt thì người ấy sẽ phải mất một mắt. Nếu người ấy làm thương tật
người quí phái thì người ta sẽ làm thương tật người ấy. Nếu người ấy làm cho
người nghèo mất một mắt hoặc phá hoại một tứ chi của người nghèo, người ấy phải
trả một mina bạc… Nếu người nào làm cho người ngang hàng gẫy răng, thì người ta
cũng làm cho người ấy rụng lại một răng. Nếu người nào làm một người nghèo gẫy
một răng thì người ấy phải trả một phần ba mina bạc ! Nguyên tắc
thật rõ ràng và rất đơn giản : nếu ai làm cho người khác bị thiệt hại điều gì
thì người ấy bị thiệt hại tương đương.
Luật ấy trở thành một phần nhỏ của đạo đức Cựu
ước. Trong Cựu ước luật ấy được đề cập không dưới ba lần :
“Còn nếu có sự thiệt hại chi , thì ngươi sẽ lấy
mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy chân
đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương”(Xh
21,23-25).
“Khi người nào làm thương tích cho kẻ lân
cận mình, thì người ta phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó
đã làm, gẫy đền gẫy, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta sẽ làm cho người ấy
đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác”(Lv 24,19-20).
“Mắt ngươi chớ có thương xót, mạng đền mạng, mắt đền
mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (TL 19,21).
Chúng ta nhận thấy rằng luật Talion đã có sự tiến bộ.
Trước hết luật này có ý hạn chế luật báo thù. Luật qui định chỉ
người gây thương tích mới bị hình phạt và hình phạt không được thái quá, mà chỉ
tương đương với sự thiệt hại mà người ấy đã gây ra mà thôi.
Thứ đến, luật này cũng không cho cá nhân nào quyền tự
trả thù, dù chỉ là một cái tát. Luật bao giờ cũng là một hướng dẫn cho quan án
trong việc khoản phạt cho bất cứ hành động bất công hay vũ phu nào.
Sau cùng, luật không được áp dụng theo nghĩa đen vì có
sự chênh lệch, ví dụ răng tốt hay răng xấu, mắt tốt hay mắt xấu. Nên về
sau sự thiệt hại gây ra được định theo giá tiền. Và
luật Do thái (Baba Kamaa) đã ấn định cẩn thận cách đánh giá sự thiệt hại.
II.
HÃY YÊU THƯƠNG
KẺ THÙ
Đức Giêsu đã phán :”Các con cũng đã nghe dạy rằng :”Hãy yêu thương tha
nhân, và ghét thù địch”. Còn Thầy, Thầy bảo các con :”Các con hãy yêu thương
thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”(Mt 5,43-44).
1- Kẻ thù là ai ?
Chắc Đức Giêsu không có ý nói kẻ thù là kẻ đang gây gỗ, lăng nhục, làm hại
hay chém giết ta, nhưng kẻ thù đây có một biên độ và ý nghĩa rộng lớn hơn
nhiều, nghĩa là bao giờ tất cả những ai cố tình làm hại ta về
mọi mặt như phẩm giá, của cải vật chất, gia đình thân thuộc mà ta biết rõ. Như
thế có nhiều hạng, nhiều cấp bậc kẻ thù, nên bảo ta yêu thương tha thứ cho họ
không đến nỗi quá khó khăn hay lực bất tòng tâm.
2- Chúa dạy ta yêu kẻ thù
Dù sao theo bản tính hư hèn yếu đuối thì việc yêu kẻ thù luôn gây cho ta
nhức nhối khó chịu vì nó đi ngược lại tình cảm thông thường. Nó đòi hỏi ta phải
có một sự cố gắng không ngừng.
Để thực hiện luật yêu thương này, Đức Giêsu đơn cử ra hai việc thực hành:
a-
“Hãy làm lành cho những kẻ ghét các
con”. Ở đây muốn nói : Tình yêu thương tha nhân
không phải thôi không giận hờn, không báo oán nữa nhưng phải tỏ ra
bằng hành động cụ thể qua những cử chỉ rõ ràng là những việc lành như : giao
tiếp, giúp đỡ, bác ái, cầu nguyện…
b-
“Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ”. Đây là thái độ biểu lộ tình yêu tha nhân cách tích cực : lấy điều lành
đền đáp lại điều dữ.
Ta có bổn phận
phải thương yêu bạn hữu. Song chỉ yêu bạn thì đâu có gì đáng thưởng. Vì cho
được thưởng đời đời thì nhân đức phải bắt nguồn từ suối siêu nhiên. Vì thế :
- Làm sự
dữ để trả ơn lành là ma quỉ.
- Làm sự lành để trả ơn lành là nhân loại.
- Làm sự lành để trả sự dữ là Thiên Chúa
Vậy người Kitô
hữu không được đứng ở chỗ nhân loại, mà phải tiến xa hơn đến chỗ Thiên Chúa.
Như thế mới xứng đáng là con cái Chúa, Đấng làm ơn lành cho kẻ ghét Ngài.
Truyện : Tổng thống Nelson Mandela
Ông Nelson Mandela đã trải qua 27 năm trong nhà tù Nam Phi. Sau cùng, khi
ông được phóng thích, ông đã có mọi lý do để cảm thấy chua cay, và
tỏ ra quyết tâm trả thù những người đã cướp đoạt tự do của ông một cách bất
công. Thay vì như thế, ông tỏ ra tươi cười và cố gắng hòa giải với những nhà lãnh
đạo của chế độ đã bắt giam ông. Do đó ông trở thành viên đá góc tường của nước
Nam Phi mới. Nếu ông nuôi dưỡng sự cay đắng uất hận, ai biết được điều gì đã
xảy ra ?
Trong cuốn tiểu sử tự thuật “Hành trình đến tự do” (1994), ông nói với
chúng ta: “Tôi biết rằng dân chúng chờ đợi tôi nuôi dưỡng sự giận dữ đối
với người da trắng. Nhưng tôi đã không làm thế. Trong nhà tù, sự tức
giận của tôi với người da trắng giảm xuống, nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội
đã tăng lên. Tôi muốn thấy đất nước Nam Phi thấy tôi yêu thương cả
những kẻ thù của tôi trong khi tôi thù ghét hệ thống đã khiến chúng ta chống
đối lẫn nhau. Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải
hay chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi
mới” (McCarthy, Chúa nhật và lễ trọng năm A, tr 359-360).
3. Nhiều người đã thực
hiện
a) Học thuyết của Khổng Tử : Trong vấn đề
cư xử, học thuyết của Đức Khổng Phu Tử còn giống luật báo oán của Cựu ước. Ngài
dạy học thuyết :”Dĩ trực báo oan”. Nhưng sau này, các đồ đệ của ngài
muốn đi xa hơn, họ đã thêm vào học thuyết của ngài câu: ”Dĩ đức báo
oán".
b) Đức Phật Thích Ca : Ngài tìm phương thế giải
thoát con người ra khỏi vòng đau khổ. Ngài chủ trương giáo thuyết TỪ
BI, lấy từ bi làm phương châm cho mọi hoạt động, mà đã từ bi thì phải hỉ xả, do
đó, ngài không chấp nhận luật công bình, mà chỉ chấp nhận luật tha thứ. Ngài
nói :”Lấy oán báo oán, oán ấy chập chồng. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu
tan”.
c) Ông Gandhi nói :”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ
lẫn nhau”. Ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi
ách thống trị của người Anh.
d) Mục sư Luther King : Trong tác phẩm của ông “Chỉ
có một cuộc cách mạng”, ông nói :”Trong Tân ước, chúng ta thầy từ
“Agapè” được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một
đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên
Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn lên đến một tình
yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm
với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ,
chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ”.
Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu: “Các con hãy yêu thương kẻ thù”. Phần
tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói :”Anh em hãy có thiện cảm
với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm
nổi. Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người
đang ném bom vào gia đình nhà tôi. Tôi không có thiện cảm với người bóc lột
tôi. Tôi không có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không
thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng
Đức Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện
chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người”.
4- Phải chăng tha thứ là nhu nhược ?
Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu thương kẻ thù” là một sự từ bỏ triệt để bạo
lực. Thay thế tình yêu cho thù hận là một việc khó khăn
nhất trên đời. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý
nghĩa.
Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phái bất bạo động. Tuy nhiên đó không
phải là một chọn lựa sự nhu nhược hay thụ động. Chọn lựa bất bạo động có nghĩa
tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là
sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù… Chúng ta phải cố gắng dùng điều
tốt nhất để đáp lại điều xấu nhất.
Là những Kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học theo lòng quảng đại của Thiên
Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán hận chống lại người khác. Nếu
các Kitô hữu không cố gắntg bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa,
họ sẽ không tốt hơn những người khác.
Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán
thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ. Một người vô danh đã nói rất đúng :”Khi
chúng ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta – quyền lực này
xâm chiếm giấc ngủ chúng ta, khiến chúng ta bị tăng huyết áp và đe dọa luôn cả
sức khỏe lẫn hạnh phúc của chúng ta. Kẻ thù của chúng ta hẳn sẽ nhảy
múa vui mừng nếu họ biết được sự căm ghét đã xâu xé chúng ta đến thế. Lòng căm
ghét của chúng ta chẳng gây thương tổn cho họ chút nào cả. Nó chỉ khiến chúng
ta ngày đêm bị rơi vào hỗn loạn địa ngục”.
Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ
thù chúng ta sau khi đã xuyên qua thân xác chúng ta
trước. Người Hy Lạp cổ thường ví von như sau: ”Người khôn ngoan
thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Truyện : Ông Hammelmann tha thứ
“Tôi đã bị bắt, cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi vốn là con người hiếu sát.
Tôi đã giết bà Hammelmann và tôi cũng bắn chết luôn 4 người con của bà, tôi
thấy họ nằm chết trên vũng máu.
Bây giờ tôi bị giam trong khám của Đức. Tôi đã ở trong khám trải
qua 20 năm. Sau khi cảnh sát bắt được tôi và tôi bị đưa ra tòa; quan tòa đã
tuyên án :”Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải ngồi tù 20 năm”.
Đang khi ở trong tù, tôi có nhận được một lá thư. Đây là một bức
thư hết sức lạ lùng của ông Hammelmann, ông đã viết thư này cho tôi vì ông đã
nhận được một tin là chính quyền Polish sẽ không cho phép tôi sau khi được tự
do trở về quê hương của tôi là Poland. Ngay cả chính quyền Đức cũng
đã nói rằng :”Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức”.
Bức thư của ông Hammelmann viết :”Tôi tha thứ cho anh về việc anh giết vợ
và 4 con tôi. Tôi cũng đang vận động với chính quyền Đức để họ cho
phép anh được sống tại Đức. Tôi đã nói với chính phủ Đức là anh có thể ở trong
nhà tôi và tôi sẽ giúp anh sống một cuộc đời lương thiện”.
“Tại sao tôi lại muốn giúp đỡ anh ? Tại sao tôi có thể tha thứ cho
anh về tội anh tàn sát gia đình tôi ? Tôi có thể làm điều
này vì Đức Chúa Trời đã làm một điều lạ cho tôi. Ngài đã ban cho tôi Thánh Linh
của Ngài. Thánh Linh của Đức Chúa Trời bây giờ dẫn dắt đời sống tôi và Ngài ban
thêm sức cho tôi để tôi có thể tha thứ cho anh”.
Bây giờ tôi biết được rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời phải có một quyền
năng siêu việt. Ngài đã cất mối tử thù khỏi lòng một người và ban
cho ông ta một tấm lòng muốn giúp đỡ tôi, mặc dầu tôi đã giết vợ và 4 đứa con
của ông ta (Thánh Kinh Nguyệt san, số 367, tháng 8/1969, tr 16).
III. HÃY SỐNG ĐỜI HOÀN THIỆN
Trong bài đọc 1, Thiên Chúa phán với ông Maisen :”Hãy nói với toàn thể
cộng đồng con cái Israel và bảo chúng : Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức
Chúa, Thiên Chúa của các người, Ta là Đấng thánh” (Lv 19,1-2). Dân Do thái
là dân thánh, là dân ưu tuyển của Thiên Chúa, cũng phải sống thánh thiện mới
xứng đáng là dân riêng của Ngài.
Chúng ta là dân Israel mới, nhờ bí tích rửa tội, chúng ta trở
thành dân thánh của Thiên Chúa. Vì vậy, trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu
cũng khuyên bảo chúng ta :”Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên
trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Chúng ta biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng,
chúng ta không thể trọn hảo như Ngài được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành
như ý Ngài muốn, theo mẫu gương thánh thiện của Ngài, là Đấng làm cho mặt trời
mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ.
Vì vậy, Đức Giêsu khuyên ta phải trọn lành bằng cách yêu thương
thù địch cũng như yêu thương bạn bè, đừng ăn miếng trả miếng, đừng sống theo
nguyên tắc :”Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”(Tục ngữ) Tình
thương trọn lành không nên phân biệt đối tượng và không có ranh giới.
Truyện : Tha thứ cho kẻ thù.
Một ông bố giầu có, cảm thấy già yếu gần đất xa trời, bèn gọi ba đứa con
trai lại chia gia tài đồng đều cho chúng, duy còn lại một viên kim
cương gia bảo quí giá không thể chia cắt được.
Ông ta giải quyết bằng cách nói với các con rằng :”Ta sẽ trao
viên kim cương cho đứa nào thực hiện được một việc lành tốt đẹp nhất. Vậy các
con hãy ra đi và thực hiện cho được điều kiện đó”.
Ba đứa con lên đường và ba tháng sau trở về. Người con cả nói với bố :
-
Một người ngoại quốc đã giao toàn bộ tài sản cho con
và con đã thủ tín trả lại đầy đủ.
Người cha tuyên bố :
-
Con đã làm phận sự của con rất tốt đẹp.
Đến lượt đứa con thứ trình :
-
Thưa cha, con đã xả thân cứu được một
em bé sắp chết đuối.
Người cha khen anh ta. Rồi quay sang nhìn đứa con út . Cậu ấp úng bẩm :
-
Thưa cha, trong một cuộc hành trình con thấy địch thù
con đang ngủ say bên một bờ vực sâu. Con nghĩ con có thể xô nó xuống
vực dễ dàng, nhưng con không làm. Trái lại con đánh thức nó dậy và cứu nó.
Nghe xong, người cha ôm hôn cậu út và tuyên bố :
- Viên kim cương gia bảo thuộc về con, vì con đã làm
một việc lành vĩ đại biểu lộ một tấm lòng nhân ái chân thực là yêu thương tha
thứ cho kẻ thù mình.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt