Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai đã lên trời, ngoại
trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa
mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được
sống muôn đời.”
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai
tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy,
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng
là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.
(Ga 3, 13-17)
SUY
TÔN THÁNH GIÁ
Nhìn vào
mối lợi thu từ khách hành hương. Các nhà kinh doanh ngành du lịch đã có sáng
kiến đầu tư xây dựng một cây thánh giá cao 60m, làm với 7,2 triệu viên gạch tại
Nagiaret hồi tháng 7. 2007.
Thánh giá
không chỉ là biểu tượng tôn giáo, mà còn là quà trang sức cho nhiều người và là
nguồn lợi nhuận cho nhà làm kinh tế. Thế nhưng, thánh giá không chỉ phục vụ cho
con người ở bề ngoài, mà còn phục vụ cả bên trong cho tất cả những ai muốn tìm
về cùng đích đời mình. Thánh giá này không chỉ phục vụ cho đời này mà còn cho
cả đời sau.
Muốn vậy,
ta cùng chiêm ngắm thánh giá của Chúa Giêsu. Câu truyện tuy đã hơn 2000 năm
nhưng vẫn còn mới, rất thời sự. Chuyện là ở đồi Gôngôtha, con người đã dựng nên
một cây thánh giá cùng một thanh niên can đảm chịu chết. Thánh giá này cũng thu
hút rất nhiều khách hành hương.
Họ không
chỉ tìm đến vì hiếu kỳ để xem cho vui mắt, mà còn khao khát tìm kiếm ý nghĩa
thật của thánh giá. Và nhiều triệu linh hồn cũng đã tìm được thánh giá thật của
Chúa Giêsu, thánh giá tình yêu. Và sẽ còn nhiều người tìm đến nữa.
Họ không
chỉ tìm đến Nagiarét như một nhà nghiên cứu lịch sử để biết thêm thông tin về
một nhân vật nổi tiếng, mà còn tìm đến đây để chiêm ngắm một vùng đất nhỏ bé,
nhưng lại rất thánh. Vùng đất được chọn để Con Thiên Chúa đặt chân bắt đầu cho
hành trình ban phát ân sủng và cứu độ con người. Điều họ muốn tìm là một
Nagiarét thật, ấy là Nước Trời.
Họ không
chỉ tìm đến một Giêrusalem vui tươi náo nhiệt hồi Chúa Giêsu 12 tuổi, mà còn
cùng đi với Ngài vào con đường khổ nạn, ấy là chấp nhận vâng theo thánh ý Chúa
Cha.
Họ không
chỉ tìm đến ngọn đồi cao để hóng mát, ngắm trăng, mà nhiều người đã trèo được
tới đỉnh đồi Gôngôtha, đã chạm được tới thánh giá, ấy là thánh giá tình yêu
Chúa Giêsu.
Họ tìm
đến Nagiarét, đến Giêrusalem, đến đồi Gôgôtha, tìm đến thánh giá Chúa Giêsu, và
nhờ thế nhiều người đã được giải thoát. Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ
kéo mọi người lên với tôi” (Ga
12,32). Lên với Tôi là ở đâu? Đó chính là tình yêu cứu độ, tình yêu giải thoát,
là Thiên Chúa. Vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Nhìn vào
hình ảnh Chúa Giêsu vác thánh giá thì nặng thật. Và nếu nhìn kỹ, ta còn thấy
nặng hơn sức tưởng tượng của con người. Thánh giá trên vai Ngài không chỉ bằng
cây bằng gỗ, mà là cả triệu triệu linh hồn đang và luôn đè nặng trên vai Ngài.
"Chính
Người vác lấy thánh giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hípri là
Gôngôtha; tại đó, họ đóng đinh Người vào thánh giá, đồng thời cũng đóng đinh
hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giêsu thì ở giữa. Ông Philatô
cho viết một tấm bảng và treo trên thánh giá; bảng đó có ghi: "Giêsusu
Nagiarét, Vua dân Dothái" (Ga
19,17-20).
Thánh
giá, tình yêu vĩ đại
Ta vẫn
nghe nói: ai lại làm thế, dại gì phải thiệt thân, hao tổn sức khoẻ, tiền bạc.
Làm thế là ngu si. Thì ra, con người tính toán với tình yêu cũng giống như làm
ăn kinh tế. Coi tình yêu là một thứ để trao đổi, mua bán cho đôi bên cùng có
lợi. Còn hy sinh vì lẽ công chính, vì tình nghĩa, quên mình phục vụ vô vị lợi
ư, nhiều khi bị coi là dại khờ.
Nói đến
thánh giá là nói đến tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa. Nhưng nhìn theo kiểu con
người, của một số người thì chẳng lớn lao gì, mà là điên rồ. Người xưa cũng nói
như vậy. Thánh Phaolô cho biết: “trong
khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp tìm kiếm lẽ
khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà
người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1Cr 1, 22).
Từ thánh
giá, với bản tính con người, chắc chắn Chúa Giêsu cũng cảm nghiệm về sự độc ác,
tàn nhẫn của nhân loại, cũng như cái mỏng giòn yếu đuối và bất biến của kiếp
người. Rồi cũng nhận thấy cái đấu tranh phản loạn mạnh mẽ của sự dữ đang ngày
đêm rình rập tấn công Ngài và con cái ánh sáng. Nhất là khi thực hiện chương
trình cứu độ của Cha. Kế hoạch cứu độ bằng đường đau khổ.
Không
phải đau khổ cứu độ, mà là tình yêu giải thoát. Đau khổ và sự chết tự nó không
là gì, nhưng là tình yêu. Tình yêu phát sinh sự sống từ đau khổ. Đau khổ gắn
liền với Chúa Giêsu. Không những lúc Ngài còn sống, mà những vết tích từ cuộc
khổ nạn còn kéo dài mãi, không xoá nhoà, bởi đó là bằng chứng tình yêu cụ thể
nhất của Ngài.
Quả
thật, thánh giá Chúa Giêsu làm cho con người khó hiểu và cho đó là điên rồ. Lý
do bởi đâu? Đơn giản, vì không ai yêu thương con người như Ngài, yêu đến cuồng
si.
Thánh giá
và cám dỗ
Xưa, ma
quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu. Chúng không ngăn cản việc cứu độ nhân loại của Ngài,
nhưng cho Ngài thấy không cần phải chịu đau khổ, không cần vác thánh giá, không
cần phải chết ô nhục. “Quỷ đem
Ngài lên một ngọn núi cao và chỉ cho thấy tất cả các nước thế gian và vinh hoa
lợi lộc từ các nước ấy” (Mt
4,8).
Rồi còn
cám dỗ Ngài cứu độ bằng quyền năng và sức mạnh sẵn có nơi mình. “Nếu
ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi” (Mt 4,3). “Nếu ông
là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống đi. Vì đã có lời chép rằng Thiên
Chúa sẽ truyền cho thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,6).
Nhưng
những điều đó ngược với tình yêu, bản chất của Thiên Chúa. Vì tình yêu mà Ngài
chấp nhận chịu thương tích.
Nay, con
người cũng không thoát ra khỏi những hình thức cám dỗ ấy. Nghĩa là tìm cách
tránh né thánh giá. Nhất là khuynh hướng đặt nặng tính hiệu năng trong một thế
giới thực dụng, phò hưởng thụ làm cho người ta quên dần, xa tránh và tẩy chay
thánh giá. Nhất là lại có một thứ tôn giáo biểu dương thánh giá. Còn con người
thì ngại khó, ngại khổ, ngại hy sinh. Dù hy sinh ấy phục vụ cho sự sống của xã
hội hay Giáo hội.
Văn minh
hưởng thụ dường như đã chiếm được ưu thế: đã có chỗ đứng trong mọi cuộc làm ăn
giao dịch và đã bén sâu vào lòng nhiều người. Thực dụng và hưởng thụ giống như
hạt giống rơi vào đất tốt, ấy là lòng người. Chính tư tưởng tai hại này làm ảnh
hưởng đến đời sống tâm linh, đến truyền thống đạo lý. Nó sẽ cào bằng mọi giá
trị trong cuộc sống: vật chất, tinh thần, tình bạn, tình hiệp thông, tình
nghĩa, tình yêu, lòng bao dung tha thứ; cào bằng các thụ tạo với nhau, các thụ
tạo với Thiên Chúa.
Con người
tìm cách để tôn vinh chính mình, thay vì Thiên Chúa. Con người ca tụng, phục vụ
và tôn thờ nhau, thay vì thờ phượng một mình Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta. Nhân
loại thích được cứu độ, được vinh quang, được nước trời, được Thiên Chúa, nhưng
lại không chấp nhận đổi bằng mồ hôi và nước mắt, hy sinh và phấn đấu, từ bỏ và
hiến mình, chịu đựng và nhẫn nại, tin tưởng và hy vọng... Con người muốn có mọi
sự tốt lành nhưng lại đòi đi trên con đường thênh thang trải thảm, lát hoa
hồng. Bằng chứng cho thấy :
- Nhiều
người muốn vào nước trời, nhưng không muốn vác thánh giá với Chúa Giêsu.
- Nhiều
người muốn được Ngài an ủi đỡ nâng, nhưng ít ai chịu cùng thử thách với Ngài.
- Nhiều
người muốn dự tiệc trong nước Ngài, nhưng ít ai muốn chịu thiếu thốn với Ngài.
- Nhiều
người muốn hạnh phúc với Ngài, nhưng ít ai sẵn lòng chịu mọi sự khó giống Ngài.
- Nhiều
người muốn hưởng vinh quang, nhưng lại không dám uống chén đắng với Người.
Con người
luôn bị cám dỗ để đi tìm một Giêsu không thánh giá. Vì thế con người gặp toàn
thánh giá mà không thấy Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cho biết về ngài: “Tôi không
muốn biết đến chuyện gì khác ngoài một Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá”(1Cr
2,2). “Tôi mang trong thân mình cuộc tử nạn của Ngài, ngõ hầu sự sống của Chúa
Giêsu cũng được tỏ hiện nơi thân xác chết dở của tôi” (2Cr 4,10). “Tôi thông
phần vào các sự thống khổ của Chúa Giêsu, để được đồng hình đồng dạng với sự
chết của Ngài, để làm sao đạt tới ơn Phục sinh từ cõi chết” (Pl 3,10-11).
* Thánh
giá không phải là cùng đích, mà là cửa dẫn vào sự sống. Nếu muốn chiếm được sự
sống muôn đời, người ấy phải trở nên “đồng hình đồng dạng với” Chúa Giêsu. Ngài là Hy tế, Đấng “đã tự thể hiện mình là tư tế, là bàn thờ, và là
con chiên”. Thánh
Phaolô nói rất đúng: “ta hãy
cùng sống, cùng chịu đau khổ, cùng chịu đóng đinh, cùng chịu chết, cùng được
mai táng thì cũng sẽ được cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Rm 8,17; Gl 2,19; Ep 2,6; 2Tm
2,11-12).
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét